Seo In-guk

Đây là một tên người Triều Tiên, họ là Seo.
Seo In-guk
Seo In-guk vào tháng 10 năm 2016
Sinh23 tháng 10, 1987 (37 tuổi)
Ulsan, Hàn Quốc
Tên khácSeo In-gook
Seo In-kuk
Học vịDaebul University
Applied Music
Nghề nghiệp
Tác phẩm nổi bậtReply 1997
Chiều cao180 cm (5 ft 11 in)
Cân nặng68 kg (150 lb)
Người thânBố, Mẹ và Em gái
Sự nghiệp âm nhạc
Thể loại
Nhạc cụVocal
Năm hoạt động2009–hiện tại
Hãng đĩa
WebsiteOfficial Korean website
Official Japanese website
Official Instagram
Twitter - Heartrider
Twitter - What's Up Inguk
Korean name
Hangul
서인국
Romaja quốc ngữSeo In-guk
McCune–ReischauerSŏ In'guk
Hán-ViệtTừ Nhân Quốc

Seo In-guk (hangul: 서인국; sinh ngày 23 tháng 10 năm 1987) là nam ca sĩ kiêm diễn viên người Hàn Quốc. Anh bắt đầu sự nghiệp ca hát của mình sau khi trở thành quán quân của chương trình tìm kiếm tài năng Superstar K. Năm 2012, anh được công chúng biết đến rộng rãi với vai trò diễn viên trong Reply 1997, một trong những series phim truyền hình ăn khách nhất.

Cuộc đời và sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Những năm đầu đời

[sửa | sửa mã nguồn]

• Seo In Guk được sinh ra trong một gia đình nghèo khó ở Ulsan.[1] Họ sống qua ngày nhờ vào công việc thu nhặt các vật liệu tái chế ở những con hẻm nhỏ.[1]

Gia đình anh gồm 4 thành viên: Cha, mẹ, anh và một em gái (Seo Bo-ram, hiện đã lập gia đình).

- Mẹ của anh (Jang Si-ja, sinh 1955) là một nữ lao công: Bà thường xuyên đi thu gom bìa các tông và chất chúng lên xe đẩy. Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, bà ở nhà để phụ giúp gia đình bằng những công việc nặng nhọc này, và vẫn tiếp tục làm đến ngày hôm nay (chỉ khác là thay bằng xe tải chứ không còn là xe đẩy). Mặc dù cậu con trai của bà đã có một sự nghiệp vẻ vang và rất thành đạt, nhưng bà dường như không muốn trở thành gánh nặng cho anh ấy. Bà cho rằng sống thì phải biết tự lực tự cường, không nên dựa dẫm vào ai. Lúc còn đang mang thai, bà đặc biệt rất thèm ăn gà nướng. Bởi vậy mà con trai bà khi lớn lên cũng thèm ăn cái món ăn này. Nhưng vì gia cảnh quá nghèo khó, không đủ tiền nên hai vợ chồng bà chỉ mua nửa con gà về để ăn, và sau đó còn giữ lại xương để hầm món súp. Bà là người ít khi nổi giận, và luôn gây ấn tượng với mọi người xung quanh bởi tính cách hoà đồng thân thiện và tấm lòng nhân ái. Bà cũng rất yêu thương hai đứa con của mình và luôn đồng hành, luôn ở bên cạnh họ cho dù họ có gặp phải nhiều khó khăn trong cuộc sống.

- Cha của anh (sinh 1962) là thợ hàn kim loại và thỉnh thoảng là một nhân viên khách sạn; ông thường xuyên phải đi công tác xa nhà, vì vậy mà ông hiếm khi ở nhà dùng bữa với vợ con. Ông từng phản đối gay gắt việc con trai mình theo đuổi ước mơ làm ca sĩ, vì ông cho rằng In Guk là con trưởng nên anh ấy phải có trách nhiệm phụ giúp cha mẹ và em, chứ không nên học thói đua đòi như vậy. Vì vậy mà Seo In Guk đã phải nói dối ba mình là anh ấy lên thành phố để làm công việc bồi bàn trong một nhà hàng, nhưng ông không hề biết rằng con trai ông đã đến một trường dạy nhạc để xin đăng ký cho theo học. Sau này Seo In Guk chia sẻ rằng, ba của anh ấy không phải là không muốn anh ấy làm ca sĩ, mà ông đã luôn âm thầm dõi theo và ủng hộ ước mơ của anh ấy từ lúc đầu. Sau khi In Guk giành được vị trí quán quân trong Super star K, ông đã đến tận nơi để chúc mừng con trai nhưng ông lại từ chối nhận số tiền thưởng mà con trai dành tặng cho ông. Chỉ khi cần tiền, ông mới gọi điện cho In Guk để vay mượn và ông không bao giờ quên chi trả đủ tiền vay mượn cho con trai.

• In Guk đã nuôi ước mơ làm ca sĩ từ khi lên 10 tuổi. Thần tượng và là người đã khơi gợi niềm đam mê âm nhạc trong anh đó chính là Kim Jung–min. Bằng việc tham gia góp vui văn nghệ trong những buổi họp gia đình và cuộc thi âm nhạc của trường, mặc dù là một cậu bé khá nhút nhát, Seo In Guk đã vượt qua được chính mình và dần khẳng định được niềm đam mê và tài năng âm nhạc. Anh theo học ngành Applied Music tại Đại học Daebul.[2] Trong suốt những năm đại học, In Guk tiết lộ rằng anh thậm chí từng không có nổi 10.000 won (8,89 USD) trong ví của mình.

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2009: quán quân Superstar K1

[sửa | sửa mã nguồn]

• Vì muốn theo đuổi ước mơ, dù bị gia đình phản đối quyết liệt, In Guk vẫn một mình bỏ nhà lên Seoul một mình từ năm 18 tuổi. Trong 3 năm đầu, anh phải luôn năn nỉ để được ở nhờ nhà bạn, liên tục thay đổi chỗ ở và bị mọi người dò xét. Sau đó, với sự giúp đỡ của mẹ, anh cuối cùng đã mua được một ngôi nhà. Đó là một nơi kinh khủng vì có nhiều côn trùng và chuột sinh sống. Dù vậy, In Guk đã tự động viên bản thân và bắt tay vào dọn dẹp để bắt đầu một cuộc sống mới trong "ngôi nhà của riêng mình".

• Sau đại học, In Guk nhiều lần thử giọng ở một số công ty giải trí lớn nhất Hàn Quốc. Anh đã phải nếm trải rất nhiều thử thách và khó khăn để theo đuổi ước mơ, những điều tưởng chừng như không thể vượt qua.

• Tại buổi thử giọng đầu tiên của mình, anh được nói rằng, sẽ tốt đẹp hơn nếu anh quay trở lại đây sau khi giảm bớt trọng lượng cơ thể (khoảng 86 kg). Sau khi nghe vậy, In Guk đã tự gây nên cho mình một nỗi ám ảnh về trọng lượng và mắc phải chứng "ăn vô độ tâm thần". Không bỏ cuộc, anh đã vật lộn với căn bệnh bằng cách tự móc họng để nôn mửa ra thức ăn tránh bị tăng cân làm dây thanh quản bị tổn thương nghiêm trọng.[3][4]. Sau khi giảm trọng lượng, anh quay trở lại JYP Entertainment và thực hiện một buổi thử giọng nữa. Nhưng lần này anh lại được nhận xét là:"Bạn đã làm tốt trong việc giảm cân nhưng có vẻ bạn đã không nỗ lực luyện tập ca hát". Đó là do hệ quả của việc tổn thương dây thanh quản, và dù đã cố gắng làm hết khả năng của mình, cuối cùng In Guk đành phải ra về tay trắng.

• Mặc dù gặp nhiều thất bại, Seo In Guk vẫn không bỏ cuộc và quyết tâm tiếp tục thử thách bản thân. Chính nhờ cá tính gan lì và mạnh mẽ của mình, cuối cùng, tháng 10 năm 2009, đánh bật hơn 720.000 thí sinh tham gia, anh đã trở thành quán quân của cuộc thi Superstar K lần thứ nhất của Hàn Quốc.

• Cùng với số tiền chiến thắng Superstar K1, nam ca sĩ từng mong muốn được phụ giúp cha mẹ bằng cách mở một nhà hàng súp kim chi để họ quản lý.

• Với chiến thắng vinh quang này, Seo In-guk được nhắc đến như là một "ngôi sao chớp nhoáng"[5][6]. Trong các buổi phỏng vấn sau đó, nam ca sĩ đã chia sẻ: "Có vẻ như mọi người chỉ biết đến tôi từ sau giây phút tôi được đăng quang Superstar K, tuy vậy, họ không biết rằng quá trình tập luyện đằng sau sân khấu mới chính là nền tảng giúp tôi giành được ngôi vị này". Thật vậy, trước khi tham gia cuộc thi, nam ca sĩ đã giành rất nhiều thời gian và công sức để rèn luyện bản thân mình, và ngôi vị quán quân là thành quả mà anh xứng đáng nhận được. Đó là cả một quá trình bền bỉ lâu dài, chứ không chỉ là "chớp nhoáng". In Guk mong tên tuổi của anh không đơn thuần chỉ gắn liền với danh hiệu Super star K hay bất cứ thứ gì khác, anh muốn được công nhận như một người hết mình, chăm chỉ và sống vì đam mê.[7]

• Ngoài ra, không những giành được giải thưởng trị giá 100 triệu won (tương đương 1,7 tỉ đồng Việt Nam) mà Seo In Guk còn được "hit man" (người chuyên tạo các ca khúc đỉnh) Bang Si-hyuk "tặng" cho "Calling you" làm ca khúc chủ đạo trong album ra mắt của anh vào cuối năm 2009.

• Mặc dù nam ca sĩ phải xoay xở với một lịch trình công việc bận rộn (thu âm, chụp quảng cáo, phỏng vấn, chương trình tạp kĩ)[8], đổi lại album "Calling You" của anh đã nhanh chóng trở thành hit được yêu thích, đem lại cho anh những thành công bước đầu. Cụ thể, cùng với ca khúc chủ đạo "Calling You", 2 ca khúc "Young Love" và "Beautiful Farewell" đã chiếm lĩnh gần như toàn bộ các bảng xếp hạng âm nhạc của Hàn Quốc chỉ trong những ngày đầu ra mắt. Với thành tích ấn tượng đó, anh đã nhận được giải thưởng nam nghệ sĩ mới tại lễ trao giải Cyworld Digital Music Award.

Năm 2012: lấn sân sang diễn xuất - đạt nhiều thành công với Reply 1997

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 2:

• Seo In Guk vào vai Hyun Woo trong vở nhạc kịch hát lại (jukebox musical) Gwanghwamun Love Song: nhân vật phải lòng người yêu của bạn thân nhưng không sao chối bỏ được tình cảm của mình. Ngoài ra anh còn luôn bảo vệ người anh trai ruột dù có phải hy sinh đánh đổi tất cả mọi thứ anh có.

Tháng 3:

• Debut làm diễn viên truyền hình khi đảm nhận một vai phụ trong bộ phim Cơn mưa tình yêu (Love Rain)[9][10] của đài KBS: Kim Chang Mo là một sinh viên luật, chủ quán cà phê âm nhạc trong thập niên 70. Nhân vật này là một người lãng mạn, cực kỳ hâm mộ guitar và âm nhạc. Seo In Guk thậm chí phải tăng cân để vào vai một nhân vật lạc quan nhưng lười biếng này.

• Ký hợp đồng với công ty giải trí Nhật Bản Irving Entertainment[11][12][13] (2012) nhằm quảng bá tên tuổi ra thị trường nước ngoài. [tham khảo]

Tháng 7:

• Đảm nhận vai nam chính trong bộ phim truyền hình ăn khách Lời hồi đáp (Reply 1997) của đài TvN. Thuộc thể loại hài kịch tình huống, Reply 1997 lấy bối cảnh thập niên 90, thời hoàng kim của nhóm nhạc đình đám H.O.T. Phim kể về một fan cuồng nhóm H.O.T là Si Won (Apink Jung Eun Ji thủ vai), cô luôn mơ được kết hôn với thành viên của nhóm nhạc này nên thực hiện một kế hoạch chi tiết để được gặp thần tượng. Trong khi đó, Yoon Yoon-jea (vai của Seo In Guk) lại là người rất thích Si Won - cô bạn thân nối khố của mình. Bộ phim đã nhận được nhiều phản hồi rất tích cực từ phía người xem cũng như từ các nhà phê bình. [tham khảo][14][15][16][17][18][19]

Tháng 9:

• Vào vai một gã lăng nhăng chính hiệu trong Rascal Sons - dự án drama cuối tuần của đài MBC. Trong phim, nam ca sĩ đóng vai Yoo Seung Gi - con trai út trong 1 gia đình gồm 3 người con. Mặc dù đã kết hôn từ rất sớm và thậm chí có một đứa nhóc kháu khỉnh song anh chàng vẫn liên tục quyến rũ những người phụ nữ khác. Thói trăng hoa của Seung Gi đã khiến vợ anh - Mi Rim (Yoon Se In) - đau khổ không ít lần. In Guk cho biết lý do lựa chọn một bộ phim truyền hình 50 tập là vì muốn học hỏi nhiều hơn từ các thầy giáo và những tiền bối dày dặn kinh nghiệm diễn xuất. [tham khảo][20][21][22][23][24]

Năm 2013: Trở lại vai trò ca sĩ và tham gia chương trình thực tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 1:

• Ký hợp đồng làm người mẫu cho hãng thời trang thể thao Isenberg. Hợp tác với nhóm nhạc nữ Sistar trong bộ sưu tập xuân hè.

Tháng 3:

• Quay trở lại ca hát khi cho ra mắt Single " I Can't Live Because of you". Bài hát nhận được nhiều sự quan tâm từ phía người hâm mộ và nhanh chóng leo lên top các bảng xếp hạng âm nhạc.

• Tham gia làm khách mời trong chương trình tạp kĩ "I Live Alone" [25] của đài MBC. Anh đồng thời nhận lời tham gia hai dự án phim điện ảnh là Police FamilyNo Breathing. [tham khảo]

- Police Family[26] là một câu chuyện lãng mạn và hài hước xoay quanh việc một cô gái sinh ra trong gia đình cảnh sát gặp gỡ và kết hôn với con trai của một gia đình tội phạm (vai của Seo In Guk).

- No Breathing[27], In Guk lần đầu tiên thử sức trong thể loại phim điện ảnh. Anh đảm nhận vai Won Il một tài năng bẩm sinh nhưng lại luôn né tránh việc bơi lội, cho đến một ngày anh ấy quyết định quay trở lại với môn thể thao này.

Tháng 4:

• Phát hành album mới tựa đề "With Laughter or With Tears". Đây là lần đầu tiên nam ca sĩ thử sức với thể loại nhạc trữ tình ballad. Với sự tham gia diễn xuất của nữ diễn viên kiêm đạo diễn đa tài Goo Hye Sun cùng những giai điệu nhẹ nhàng sâu lắng, bài hát miêu tả tâm trạng đau khổ và buồn phiền của một người đàn ông sau khi chia tay với người yêu [tham khảo][28][29][30]. Không dừng lại ở đó, Goo Hye Sun còn chủ động góp thêm một sáng tác của mình vào album mới nhất của nam ca sĩ. Were we happy?[31][32] cũng là một bản ballad buồn cho thấy những tâm tư tiếc nuối sau khi đôi lứa tan vỡ.

• Debut tại Nhật Bản với album Fly Away[33][34]. Nội dung bài hát phản ánh rất rõ những tâm tư phiền muộn của người đàn ông sau khi để người phụ nữ của mình ra đi. Bài hát có một ý nghĩa sâu sắc và giai điệu da diết khiến người nghe không khỏi xúc động.

Tháng 5:

• Được cử làm đại sứ danh dự cho cục cảnh sát Ulsan (Korea). Thời gian hoạt động trong 2 năm với chiến dịch nhằm "xóa bỏ 4 tệ nạn xã hội".

• Tham gia thử thách Midnight Challenge Trekking của hãng thời trang Isenberg.

• Hợp tác với Sistar làm người mẫu độc quyền của thương hiệu thời trang thể thao Isenberg trong bộ sưu tập thu đông 2013. Tháng 6:

• Tham gia drama của đài SBS mang tựa Mặt trời của chàng Joo (The Master's Sun), hợp tác với hai ngôi sao nổi tiếng So Ji Sub và Gong Hyo Jin. - Thuộc thể loại mới lạ: hài kịch lãng mạn kết hợp với yếu tố kinh dị, bộ phim được chắp bút bởi hai nhà biên kịch danh tiếng - chị em nhà Hong. Trong phim, Seo In Guk sẽ vào vai Kang Woo, đội trưởng đội an ninh của một trung tâm thương mại. Kang Woo là một nhân vật có lý lịch đặc biệt. Xuất thân là một quân nhân, sau khi xuất ngũ đã chọn công việc làm bảo vệ. Là một con người hiền lành và có tinh thần trách nhiệm cao, Kang Woo luôn cố gắng hết sức để hoàn thành nhiệm vụ được giao.[35][36]

- Sở hữu nhiều yếu tố hoàn hảo (sự phối hợp ăn ý của dàn diễn viên, kịch bản phong phú với những tình tiết khơi gợi sự tò mò, đạo diễn tài năng và nhiệt huyết dẫn dắt….), The Master's Sun đã chiếm lĩnh vị trí quán quân của bảng xếp hạng truyền hình khung giờ vàng ngày thứ 4 - 5 trong năm tuần liên tiếp sau khi ra mắt.

Tháng 7:

• Tổ chức buổi họp fan đầu tiên ~ HELLO! ~ tại Nhật. Sự kiện thu hút nhiều mối quan tâm của giới truyền thông.

Tháng 10:

• Ra mắt 2nd Japanese Single "We Can Dance Tonight".

• Thử sức với bộ phim điện ảnh lần đầu tiên tựa No Breathing (Mỹ Nam Đại Chiến) về hai tuyển thủ bơi lộ, với sự hợp tác Lee Jong-sukKwon Yuri.

Năm 2014-2016: Tiếp tục vai trò diễn xuất

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2014

• Làm đại sứ danh dự (cùng với Apink Jung Eun-ji) cho "Hội nghị toàn quyền Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU)".

• Thử sức vai trò kép trong bộ phim ngắn Another Parting, 5 tập về một người đàn ông và một người phụ nữ gặp nhau trong những khoảnh khắc cuối cùng trong cuộc sống của họ.[37] Được sản xuất bởi Loen Entertainment, phát sóng vào ngày 17 tháng 2 năm 2014 trên Taekwang Group - kênh truyền hình cáp thuộc Dramacube (cũng được phát sóng trên BTVYouTube).

• Muốn thử sức nhiều nhân vật khác nhau, In-guk xác nhận sẽ vào vai một tên cướp trẻ trong phim hành động Wild Dog[38]. Nhưng cũng giống như Police Family, bộ phim gặp một số trục trặc và không thể tiến hành. Thay vào đó, In-guk nhận vai chính trong drama hai lãng mạn High School King of Savvy (Vua trường học), trong phim, In-guk là một học sinh triển vọng với bộ môn khúc côn cầu nhưng đột nhiên phải đóng vai thay anh trai mình trở thành giám đốc điều hành của một công ty.[39][40][41]

• Vào cuối năm, In-guk vào vai chính trong một drama cổ trang dài tập mang tên The King's Face (Diện mạo hoàng đế), trong vai hoàng tử Gwang-hae, người trở thành đối thủ của cha ông - Vua Seonjo trong chính trị và tình yêu.[42]

Năm 2015

• In-guk tham gia chương trình thực tế của đài SBS Law Of The Jungle từ tháng 3 đến tháng 5, cho chuyến đi ở Đông Dương.[43]

• Nhận vai một chuyên gia phân tích tội phạm thiên tài Lee Hyun trong series phim trinh thám lãng mạn Hello Monster/I Remember You phát sóng trên kênh KBS2.[44]

• Vào ngày 15 tháng 12, anh tái hợp các nghệ sĩ cùng công ty Jellyfish Entertainment trong một track mang tên “Love In The Air” (Hangul: 사랑난로) cho album Jelly Christmas 2015 – 4랑.[45][46] Ca khúc ở thứ hạng 14 trên Gaon Digital Chart.[47]

Năm 2016

• Xác nhận vai nam chính trong 38 Revenue Collection Unit, drama do đài truyền hình cáp OCN sản xuất, anh trong vai Yang Jung-do một tay lừa đảo chuyên nghiệp, tính đến nay. Đây là drama có tỉ suất người xem cao nhất lịch sử nhà đài này nhận được.[48]

• In-guk trở lại Law Of The Jungle lần thứ 2 cho chuyến đi đến Mông Cổ.[49]

• Trở lại màn ảnh nhỏ vào cuối năm với drama hài lãng mạn Shopaholic Louis/Shopping King Louis, trong vai cậu ấm Louis được lớn lên trong sự nuông chiều và bảo bọc ở Pháp, tìm đến thú vui mua sắm nhằm giải tỏa sự cô đơn của mình.[50]

Diễn xuất

[sửa | sửa mã nguồn]

Phim truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên phim Vai diễn Nhà đài
2012 Love Rain Kim Chang-mo (1970s)
Kim Jeon-seol (2012)
KBS2
Reply 1997 Yoon Yoon-jae tvN
The Rascal Sons Yoo Seung-gi MBC
2013 The Master's Sun Kang Woo SBS
Reply 1994 Yoon Yoon-jae (Cameo, tập 16-17) tvN
2014 Another Parting Ahn Young-mo Dramacube
High School King Of Savvy Lee Min-seok/ Lee Hyung-seok tvN
The King's Face Hoàng tử Gwanghae KBS2
2015 Ma nữ đáng yêu (Oh My Ghost) Edward Seo (Cameo tập 16) tvN
She Was Pretty Khách mời (Cameo tập 9a) MBC
Hello Monster/ I Remember You Lee Hyun KBS2
2016 Đội đặc nhiệm số 38/ 38 Revenue Collection Unit Yang Jung-do OCN
Ông hoàng mua sắm/ Shopping King Louis Kang Ji Sung/Louis MBC
2018 The Smile Has Left Your Eyes Kim Moo Young tvN
2019 Abyss Ailen (Cameo ep 1, 16)
2021 Navillera Hwang Hee (Cameo ep 9)
Một ngày nọ kẻ hủy diệt gõ cửa nhà tôi Myul Mang / Kim Sa Ram
2022 Soundtrack #1 Jay Jun (Cameo ep. 3) Disney+
Tiệm Café Mỹ Nam/ Café Minamdang Nam Han Jun KBS2
2023 Death's Game Choi Yi Jae TVING

Phim điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên phim Vai diễn
2013 No Breathing Won-il
2016 “That’s a crazy little thing called love (那件疯狂的小事叫爱情) Yang Mingzhe (cameo)
2021 PIPELINE Pindol
2022 Project Wolf Hunting Park Jong Du

Sân khấu

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Vở kịch Vai diễn
2012 Gwanghwamun Love Song Hyun-woo
2023 Monte Cristo Monte Cristo
Năm Bài hát Nghệ sĩ
2012 Please Don't K.Will
2013 Pick Up the Phone Phone
Would You? Swings feat. Seo In-guk
2024 No Sad Song For My Broken Heart K.Will

Âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Thông tin Album Danh sách bài hát
부른다 (Calling)
  • EP
  • ngày 27 tháng 10 năm 2009
  • Mnet Media
Danh sách bài hát


  1. 부른다 (Calling You)
  2. 아름다운 이별 (Beautiful Separation)
달려와 (Run to Me)
  • Digital single
  • ngày 30 tháng 10 năm 2009
  • Mnet Media
Danh sách bài hát
  1. 달려와 (Run to Me) (Rally Ver. 2) (With Bigtone)
  2. 달려와 (Run to Me) (Rally Ver. 2) (Inst.)
Just Beginning
  • EP
  • ngày 6 tháng 5 năm 2010
  • Mnet Media
Danh sách bài hát
  1. Beginning
  2. 사랑해 U
  3. 마지막 생일
  4. 왜 웃기만해
  5. Prime Time (feat. Lisa)
  6. 첫눈에 (feat. Rebekah Kim
애기야 (Aegiya) Repackaged Album
  • EP
  • ngày 10 tháng 8 năm 2010
  • Mnet Media
Danh sách bài hát
  1. Beginning
  2. 사랑해 U
  3. 애기야 (My Baby U)
  4. 마지막 생일
  5. 왜 웃기만해
  6. Prime Time (Feat. Lisa)
  7. 첫눈에 (feat. Rebekah Kim
Take
  • Korean cover version:Take on Me by A-ha
  • Digital single
  • ngày 22 tháng 11 năm 2010
Danh sách bài hát
  1. Take
Jelly Christmas
Danh sách bài hát
  1. Christmas Time
  2. Christmas Time (Inst.)
Broken
  • Digital single
  • ngày 31 tháng 3 năm 2011
  • Mnet Media
Danh sách bài hát
  1. Broken
Shake It Up
  • Digital single
  • ngày 10 tháng 8 năm 2011
  • Universal Music Group
Danh sách bài hát
  1. Shake It Up
Jelly Christmas 2011
  • Digital single
  • ngày 2 tháng 12 năm 2011[51]
  • Jellyfish Entertainment
Danh sách bài hát
  1. 모두에게 크리스마스 (Christmas for All)
  2. 모두에게 크리스마스 (Christmas for All) (Inst.)
Fate (Like a Fool)
Danh sách bài hát
4. 운명 (바보처럼) (Fate (Like a Fool))
Perfect Fit
  • EP
  • ngày 12 tháng 4 năm 2012
  • CJ E&M
Danh sách bài hát
  1. Bad
  2. 밀고 당겨줘 (Tease Me)
  3. Time Machine (feat. Swings)
  4. Brand New Day
  5. 밀고 당겨줘 (Tease Me) (Inst.)
Love Story - Part 1
  • Digital single, Reply 1997
  • ngày 28 tháng 8 năm 2012
  • CJ E&M
Danh sách bài hát
  1. All For You (song ca với Jung Eun-ji)
Love Story - Part 2
  • Digital single, Reply 1997
  • ngày 4 tháng 9 năm 2012[53]
  • CJ E&M
Danh sách bài hát
  1. 우리 사랑 이대로 (Just the Way We Love) (song ca với Jung Eun-ji)
Jelly Christmas 2012 Heart Project
  • Digital single
  • ngày 6 tháng 12 năm 2012
  • Jellyfish Entertainment
Danh sách bài hát
  1. 크리스마스니까 (Because It's Christmas) - Sung Si-kyung, Park Hyo-shin, SG_Wannabe#Members
Y.BIRD from Jellyfish Island with Seo In-guk
  • Digital single
  • ngày 4 tháng 2 năm 2013[54]
  • Jellyfish Entertainment
Danh sách bài hát
  1. 너 땜에 못 살아 (I Can't Live Because of You) (feat. Verbal Jint)
  2. 너 땜에 못 살아 (I Can't Live Because of You) (Inst.)
With Laughter or with Tears
  • Digital single
  • ngày 11 tháng 4 năm 2013
  • CJ E&M
Danh sách bài hát
  1. 웃다 울다 (With Laughter or with Tears)
  2. 행복했을까 (Were We Happy) (feat. Ku Hye-sun)
  3. 웃다 울다 (With Laughter or with Tears) (Inst.)
  4. 너 땜에 못 살아 (I Can't Live Because of You) (feat. Verbal Jint)
Fly Away
  • Japanese Single
  • ngày 24 tháng 4 năm 2013
  • Nippon Crown
Danh sách bài hát
  1. Fly Away
  2. Deep Inside My Heart
  3. Shake It Up (original Korean ver.)
  4. Tease Me (original Korean ver.)
  5. Fly Away (Inst.)
  6. Deep Inside My Heart (Inst.)
No Matter What
Danh sách bài hát
  1. No Matter What (겁도 없이)
  2. No Matter What 겁도 없이 (Inst.)
We Can Dance Tonight
  • Japanese Single
  • ngày 31 tháng 10 năm 2013
  • Nippon Crown
Danh sách bài hát

CD

  1. We Can Dance Tonight
  2. My Voice
  3. Best Friend
  4. We Can Dance Tonight (Inst.)
  5. My Voice (Inst.)
  6. Best Friend (Inst.)

DVD

  1. We Can Dance Tonight (Music Video)
  2. Making movie
Everlasting
  • Japanese album
  • Released: ngày 15 tháng 1 năm 2014
  • Nippon Crown
Danh sách bài hát
  1. Everlasting Love
  2. Only One
  3. My Voice
  4. Toxic Girl
  5. We Can Dance Tonight
  6. Lovely Girl
  7. 戀しくて
  8. Deep Inside My Heart
  9. Fly Away
  10. Just One Ring
  11. Space de Tour
  12. Hands Up!
Bomtanaba (Mellow Spring)
Danh sách bài hát
  1. 봄 타나봐 (Bomtanaba) (Mellow Spring)
  2. 봄 타나봐 (Bomtanaba) (Mellow Spring) (Inst.)
hug
Danh sách bài hát
  1. もう、会えなくて。
  2. 君の色
  3. Good-Bye Dear
  4. 瞳の中のフォトグラフ
  5. 遠ざかる (Korean Ver.)
  6. 美しい絶望
Finding Myself
Danh sách bài hát
  1. 돌아오는 길 (Finding Myself)
  2. 돌아오는 길 (Finding Myself) (Inst.)
Flower
  • from Tomorrow with You OST
  • Released: ngày 11 tháng 02 năm 2017
  • CJ E&M Music
Star (with. Jung So-min)
  • from The Smile Has Left Your Eyes OST
  • Released: ngày 08 tháng 11 năm 2018
  • Genie Music
Distant Fate
  • from Doom at Your Service OST
  • Released: ngày 22 tháng 06 năm 2021
  • Music and New
My Love (ft. RAVI)
  • Single
  • Released: ngày 14 tháng 06 năm 2022
  • AER Music
I Like You
  • from Café Minamdang OST
  • Released: ngày 09 tháng 08 năm 2022
  • Warner Music, ADA
Even if there is no miracle
  • from Death's Game OST
  • Released: ngày 14 tháng 12 năm 2023
  • Blending Co

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Giải thưởng Thể loại Đóng góp Kết quả
2009 Cyworld Digital Music Awards Male Newcomer of the Year
Calling
Đoạt giải
2010 Mnet Asian Music Awards Best New Male Artist
"Love U"[55]
Đề cử
2012 5th Korea Drama Awards Best Couple Award with Jung Eun-ji
Reply 1997
Đoạt giải
Best New Actor Đoạt giải
5th Style Icon Awards Top 10 Style Icons with Jung Eun-ji Đoạt giải
1st K-Drama Star Awards Rising Star Award Đoạt giải
Best Couple Award with Jung Eun-ji Đoạt giải
Best OST
"All for You" (with Jung Eun-ji)
Đoạt giải
14th Mnet Asian Music Awards Best OST Đoạt giải
4th Melon Music Awards Best OST Đoạt giải
MBC Drama Awards Best New Actor Rascal Sons Đề cử
KBS Drama Awards Best New Actor Love Rain Đề cử
2013 2nd Gaon Chart K-Pop Awards Song of the Year (September) "All for You" (with Jung Eun-ji) Đoạt giải
49th Baeksang Arts Awards Best New Actor (TV) Reply 1997 Đề cử
SBS Drama Awards New Star Award Master's Sun Đoạt giải
2014 3rd Gaon Chart K-Pop Awards Song of the Year (December) "Loved You" (with Zia) Đoạt giải
16th Mnet Asian Music Awards Best Collaboration Đề cử
50th Baeksang Arts Awards Most Popular Actor (TV) Master's Sun Đề cử
7th Korea Drama Awards Excellence Award, Actor High School King of Savvy Đề cử
7th Style Icon Awards Top 10 Style Icons Đề cử
KBS Drama Awards Excellence Award, Actor in a Mid-length Drama The King's Face Đề cử
Best New Actor Đoạt giải
2016 tvN10 Awards Best Kiss with Jung Eun-ji Reply 1997 Đoạt giải
Made in tvN Actor in Drama Đoạt giải
11th Asian TV Drama Conference Actor Award Squad 38 Đoạt giải
MBC Drama Awards Excellence Award, Actor in Miniseries Shopping King Louie Đoạt giải
Best Couple Award with Nam Ji-hyun Đề cử
Daesang Đề cử
2018 14th Soompi Awards Actor Of The Year The Smile Has Left Your Eyes Đề cử
Best Couple Award with Jung So-min
2021 Brand Of The Year Actor Of The Year Doom At Your Service Đề cử
Drama Of The Year
2022 43rd Blue Dragon Film Awards Best New Actor Project Wolf Hunting Đề cử

Sân khấu âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Seo In Guk từng lần lượt giành chiến thắng trong các sân khấu âm nhạc Hàn Quốc - M! Countdown và Music Trangle - được phát sóng trên các kênh truyền hình cáp Mnet và KM. [nguồn tham khảo]

M! Countdown

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Ngày Bài hát
2010 20 tháng 5 사랑해 U ("Love U")

Music Triangle

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Ngày Bài hát
2012 19 tháng 9[56] "All For You" (with Jung Eun-ji)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Chun, In-sung (ngày 26 tháng 7 năm 2010). “Superstar K kicks off season two”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  2. ^ Han, Sang-hee (ngày 10 tháng 11 năm 2009). “Superstar Winner's First Step to His Dream”. The Korea Times. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  3. ^ Ho, Stewart (ngày 19 tháng 4 năm 2012). “Seo In Guk Reveals His Battle With Bulimia For a Past JYP Audition”. enewsWorld. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  4. ^ Sunwoo, Carla (ngày 21 tháng 4 năm 2012). “Seo In-guk reveals eating disorder”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  5. ^ “서인국 "음주운전 마약 안 했는데 지상파 무대 왜 못서?" 심경 고백” [Seo In Kook expresses disappointment on being rejected from SBS and MBC]. TV Report (bằng tiếng Triều Tiên). ngày 31 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2012.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  6. ^ Chang, Hae-won (ngày 6 tháng 4 năm 2011). “Cable stars get networks' cold shoulder”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  7. ^ “allkpop Radar: Seo In Guk”. allkpop.com. 11 tháng 11 năm 2012.
  8. ^ Lee, Hyo-won (ngày 28 tháng 10 năm 2009). “New Kid on the Block Sweeps Music Charts”. The Korea Times. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  9. ^ Ho, Stewart (ngày 13 tháng 3 năm 2012). “Still Cuts of Seo In Guk With Jang Keun Suk for Love Rain. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  10. ^ Ho, Stewart (ngày 23 tháng 4 năm 2012). “Seo In Guk Returns to Love Rain as the Rocker Nephew”. enewsWorld. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.[liên kết hỏng]
  11. ^ Ho, Stewart (ngày 23 tháng 7 năm 2012). “Seo In Guk Joins Irving ENT to Prepare for Japan Debut”. enewsWorld. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.[liên kết hỏng]
  12. ^ Sunwoo, Carla (ngày 24 tháng 7 năm 2012). “Seo In-guk to make debut in Japan”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  13. ^ Lee, Hye-ji (ngày 24 tháng 7 năm 2012). “Seo In-guk signs with Kwone Sang-woo's Japanese agency”. 10Asia. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.[liên kết hỏng]
  14. ^ Park, Hyun-min (ngày 31 tháng 7 năm 2012). “Reply 1997: Seo In Guk Brings Romance to the Screen”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  15. ^ Hong, Grace Danbi (ngày 21 tháng 8 năm 2012). “Seo In Guk Talks about Acting and Scandals with A Pink's Jung Eun Ji”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  16. ^ Choi, Eun-hwa (ngày 11 tháng 9 năm 2012). “Interview: Seo In Guk Wants Everyone to Tune In to Reply 1997. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  17. ^ Choi, Eun-hwa (ngày 11 tháng 9 năm 2012). “Interview: Seo In Guk Knew He Would Become the Bad Guy after Touching Jung Eun Ji's Breasts”. enewsWorld. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  18. ^ Ho, Stewart (ngày 18 tháng 9 năm 2012). “Twitter Roundup: Seo In Guk's Final Episode”. enewsWorld. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.[liên kết hỏng]
  19. ^ Hong, Grace Danbi (ngày 20 tháng 9 năm 2012). “Seo In Guk Sheds His Good Boy Image”. enewsWorld. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.[liên kết hỏng]
  20. ^ Ho, Stewart (ngày 13 tháng 8 năm 2012). “Seo In Guk Joins Cast of MBC's Upcoming Drama Sons. enewsWorld. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.[liên kết hỏng]
  21. ^ Lee, Tae-ho (ngày 14 tháng 8 năm 2012). “Seo In-guk cast in MBC weekend TV series”. 10Asia. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.[liên kết hỏng]
  22. ^ Sunwoo, Carla (ngày 15 tháng 8 năm 2012). “Seo In-guk lands another acting role”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  23. ^ Ko, Hong-ju (ngày 30 tháng 8 năm 2012). “Seo In Guk is a Married Man?”. enewsWorld. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.[liên kết hỏng]
  24. ^ Ko, Hong-ju (ngày 19 tháng 1 năm 2013). “Seo In Guk is Looking for Love”. enewsWorld. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2013.[liên kết hỏng]
  25. ^ Ho, Stewart (ngày 29 tháng 1 năm 2013). “Seo In Guk Joins New MBC Variety Pilot Program”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2013.
  26. ^ Ho, Stewart (ngày 18 tháng 1 năm 2013). “Seo In Guk to Make His Movie Debut Through Police Family. enewsWorld. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2013.[liên kết hỏng]
  27. ^ An, So-hyoun (ngày 18 tháng 4 năm 2013). “Seo In Guk and Lee Jong Seok Cast for Film No Breathing. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
  28. ^ Lee, Sun-min (ngày 5 tháng 4 năm 2013). “After acting, Seo In-guk sings again”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2013.
  29. ^ Hong, Grace Danbi (ngày 4 tháng 4 năm 2013). “Seo In Guk Slides on Over to Music Again with New Album Release”. enewsWorld. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2013.[liên kết hỏng]
  30. ^ Lee, Eun-ah (ngày 9 tháng 4 năm 2013). “Singer Seo In Guk Returns with a New Single Album, With Laughter or with Tears. 10Asia. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2013.[liên kết hỏng]
  31. ^ Jeon, Su-mi (ngày 11 tháng 4 năm 2013). “Ku Hye Sun Presents Seo In Guk with a Self-Written Song”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2013.
  32. ^ Hong, Grace Danbi (ngày 9 tháng 4 năm 2013). “Seo In Guk Burns Breakfast and Cries in New Teaser”. enewsWorld. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2013.[liên kết hỏng]
  33. ^ Park, Hani (ngày 18 tháng 2 năm 2013). “Seo In Guk to Debut in Japan Coming April”. enewsWorld. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2013.[liên kết hỏng]
  34. ^ Park, Hani (ngày 23 tháng 2 năm 2013). “Seo In Guk's Japanese Album Jacket Photo Released”. enewsWorld. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2013.[liên kết hỏng]
  35. ^ Jeon, Su-mi (ngày 4 tháng 6 năm 2013). “Seo In Guk Cast in Hong Sisters' The Sun of the Lord. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2013.
  36. ^ Lee, Eun-ah (ngày 4 tháng 6 năm 2013). “Seo In-guk Cast in Kong Hyo-jin, So Ji-sub Drama”. 10Asia. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2013.
  37. ^ Kim, Jessica (ngày 6 tháng 2 năm 2014). “Seo In-guk to Star in Short Drama”. 10Asia. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014.
  38. ^ Kim, Hee-eun (ngày 5 tháng 3 năm 2014). “Fledgling actor takes on dark role”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2014.
  39. ^ Kim, Hee-eun (ngày 16 tháng 4 năm 2014). “Seo In-guk returns to tvN”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2014.
  40. ^ Kim, Ji-soo (ngày 16 tháng 4 năm 2014). “Seo In-guk to star in new drama”. The Korea Times. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2014.
  41. ^ Oh, Jean (ngày 11 tháng 6 năm 2014). “Seo In-guk back in summer rom-com”. The Korea Herald. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2014.
  42. ^ “Seo In-guk spotted during first filming of 'The King's Face'. KpopHerald. ngày 27 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2015.
  43. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2016.
  44. ^ Jin, Min-ji (ngày 25 tháng 4 năm 2015). “Seo In-guk takes on drama”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2015.
  45. ^ “Jellyfish Entertainment Reveals Teaser for Christmas Album”. soompi.com. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.
  46. ^ “Jellyfish artists Seo In Guk, VIXX, Park Jung Ah, and Park Yoon Ha sing 'Love Heater' for the holidays”. allkpop. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2015.
  47. ^ “젤리크리스마스 2015 - 4랑 [사랑난로] Gaon Digital Chart weekly ranking 2015.12.13-2015.12.29”. Gaon Music Chart (in Korean). Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2015.
  48. ^ “Squad 38 Cast Crew Earn Trip Record Breaking Ratings”. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2016.
  49. ^ “Eric Nam, Seo In Guk, BTOB's Changsub Head Mongolia Head Jungle”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2016.
  50. ^ "Shopping King Louie" Drops Whimsical Posters Featuring Main Cast”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2016.
  51. ^ Lee, Nancy (ngày 2 tháng 12 năm 2011). “Jellyfish Entertainment Spreads Christmas Cheer in New Music Video”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  52. ^ Ho, Stewart (ngày 26 tháng 5 năm 2012). Love Rain OST to Include Seo In Guk's First Self-Composed Track”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  53. ^ Jeon, Su-mi (ngày 4 tháng 9 năm 2012). Reply 1997 Releases Second Duet Between Jung Eun Ji and Seo In Guk”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  54. ^ Hong, Grace Danbi (ngày 4 tháng 2 năm 2013). “Seo In Guk Only Wants You in New MV with VerbalJint”. enewsWorld. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2013.[liên kết hỏng]
  55. ^ Hicap, Jonathan M. (ngày 29 tháng 10 năm 2010). “Controversial Mnet Asian Music Awards bares nominees”. Manila Bulletin. Manila Bulletin Publishing. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2011.
  56. ^ Lee, Nancy (ngày 21 tháng 9 năm 2012). Reply 1997 Song Ranks First on Mnet's New Music Ranking Program Music Triangle. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2012.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]